Từ lâu, các thành phần có nguồn gốc từ động vật hoang dã đã được sử dụng rộng rãi để điều trị nhiều bệnh lý trong Y học Cổ truyền. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm này ngày càng tăng, điều này đang đẩy nhiều loài động vật hoang dã đến nguy cơ tuyệt chủng. Bên cạnh đó, việc săn bắt và khai thác động vật hoang dã không kiểm soát có thể dẫn đến sự lây lan của các dịch bệnh từ động vật sang người, tạo ra mối nguy hiểm to lớn đối với sức khỏe cộng đồng.

Số liệu về tình trạng tuyệt chủng của các loài ĐVHD hay được sử dụng trong y học cổ truyền cho thấy, hơn 1 triệu cá thể tê tê bị giết hại trong giai đoạn năm 2000 - 2014 (TRAFFIC). Tất cả 8 loài tê tê trên thế giới hiện nay đều đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng (IUCN). Tại châu Á, số lượng tê tê đã giảm hơn 80% trong 20 năm qua do bị săn bắt để lấy vảy và thịt. (IUCN)
Đối với hổ, diện tích phân bố của loài này đã bị thu hẹp đến 93% chỉ trong 1 thế kỷ (IUCN). Theo ước tính, có khoảng 7000 - 8000 cá thể hổ đang bị nuôi nhốt tại các cơ sở trên khắp châu Á (TRAFFIC). Tính đến tháng 11/2021, chỉ còn khoảng 3900 cá thể hổ hoang dã trên toàn thế giới, sụt giảm đáng kể so với 100.000 cá thể một thế kỷ trước (WWF).
Tình hình cũng không khá hơn đối với loài tê giác khi Sách Đỏ IUCN xếp 3 trong 5 loài tê giác còn lại (tê giác đen, tê giác Sumatra và tê giác Java) vào diện loài cực kỳ nguy cấp (IUCN). Từ đầu thế kỷ 20, số lượng tê giác hoang dã trên toàn cầu đã giảm mạnh từ 500.000 cá thể xuống còn chưa tới 28.000 con (IRF).
Tương tự, hơn 12.000 cá thể gấu đang bị nuôi nhốt trong các trang trại lấy mật ở châu Á (WAP, 2018). Tính đến tháng 8/2024, vẫn còn 94 cá thể gấu đang bị nuôi nhốt trong 16 cơ sở tư nhân tại Hà Nội (ENV)…
Chính vì thế, việc tìm kiếm và thúc đẩy các giải pháp thay thế bền vững trong Y học Cổ truyền trở nên vô cùng quan trọng và cấp thiết. Các thảo dược và dược liệu thay thế không chỉ có giá thành thấp, dễ dàng tiếp cận và bền vững hơn mà còn mang lại các tác dụng điều trị hiệu quả, giúp bảo vệ động vật hoang dã, đồng thời duy trì đa dạng sinh học và cân bằng hệ sinh thái toàn cầu.
Phát biểu tại hội thảo, PGS-TS. Nguyễn Phương Dung, Viện trưởng Viện Y Dược Việt, cho biết Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ buôn bán và tiêu thụ ĐVHD cao. Bà cũng nhấn mạnh rằng việc sử dụng các sản phẩm từ ĐVHD không những không mang lại hiệu quả chữa bệnh như mong đợi mà còn tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh nghiêm trọng.
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng ĐVHD mang trong mình nhiều mầm bệnh nguy hiểm có thể lây sang con người, và việc sử dụng thịt ĐVHD hoặc nuôi nhốt chúng chỉ làm tăng thêm nguy cơ bùng phát các dịch bệnh nguy hiểm.
Để giải quyết vấn đề này, bà Phương Dung đề xuất các biện pháp như tăng cường thực thi pháp luật, khuyến khích sử dụng dược liệu thay thế, và hỗ trợ người dân phát triển các mô hình nông nghiệp và chăn nuôi bền vững.

BS Đoàn Văn Minh, Trưởng khoa Y học cổ truyền, Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế, cũng chia sẻ quan điểm tương tự. Ông cho biết rằng đơn vị của ông sẽ hợp tác cùng Mạng lưới Bảo vệ ĐVHD trong y học cổ truyền và có định hướng xây dựng chương trình giảng dạy y khoa liên tục về bảo vệ ĐVHD trong y học cổ truyền.
Ông Minh nhấn mạnh đến việc xây dựng tài liệu giảng dạy và tài liệu tham khảo liên quan, hướng dẫn sử dụng các loại thuốc thay thế ĐVHD trong điều trị.
ThS – KS. Lê Ngọc Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục kiểm lâm TP Huế, cảnh báo về mối đe dọa tiềm ẩn đối với sức khỏe cộng đồng từ việc tiêu thụ ĐVHD trái phép.
Ông Tuấn nhấn mạnh rằng các loài động vật này có thể mang theo mầm bệnh nguy hiểm, gây nguy cơ lây lan dịch bệnh và gây tổn hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái và đời sống con người. Vì vậy, cần có những biện pháp mạnh mẽ để chấm dứt hành vi này và bảo vệ sức khỏe toàn xã hội.